chuyên đề hàn mặc tử

Hàn Mặc Tử và Thơ Phật giáo. Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyệt Thu vào 28/09/2011 06:57. ''Thơ diên'' ngay ở nhan dề đó dã thu hút nhiều bạn dọc dến với 1 tập thơ suất sắc của Hàn mạc tử một cây bút tài hoa bạc mệnh.Ở đây tôi muốn giành thời gian nói về bài thơ ''Dây thôn vĩ dạ''dược rút ra Họa một bài thơ Đường đặc biệt của Hàn Mặc Tử (bài thơ Xuân có 8 cách đọc) 19.01.2020bài này đọc chừng 9 phút. Bài thơ của thi sĩ Hàn gây nhạc nhiên cho nhiều độc giả. Điều tuyệt vời là từ bài thơ này, chúng ta có thêm 7 bài thơ khác đều hay bằng cách rất đơn Le Meilleur Site De Rencontre Non Payant. Chuyên đề THI SĨ HÀN MẶC TỬ - TÁC GIA, TÁC PHẨM VÀ TIẾP NHẬN Quy Nhơn, ngày 21/9/2019 NGUYỄN HỮU SƠN Viện Văn học 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tel 0913031635 Chuyên đề gồm ba nội dung chính Tình hình văn bản - Quá trình tiếp nhận Hàn Mặc Tử qua các thời kỳ - Tiếp nhận Hàn Mặc Tử sau Đổi mới 1986 và định hướng nghiên cứu hiện nay… I. TÌNH HÌNH VĂN BẢN THƠ VĂN HÀN MẶC TỬ 1. Về nguồn thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận Thi sĩ Hàn Mặc Tử 1912-1940, còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Mộng Cầm, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Mlle Phương Liên, Anh Hoa, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang…; từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte… Theo quan sát của chúng tôi, công trình sưu tập văn bản học tốt nhất về Hàn tính đến nay chính là Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm Tái bản. NXB Văn học, H., 2002; 528 trang của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ PCĐ, 1933-2007. Trong sách Thơ Hàn Mặc Tử NXB Văn hóa – Thông tin, H., 2001; 342 trang, soạn giả Mã Giang Lân MGL dựa vào thống kê của Phạm Đán Bình Tin nhà, Paris, số 2-1991 cho biết thêm nhan đề 18 mục bài viết của Hàn, đồng thời xác định “thơ Hàn chúng ta mới được đọc chừng 150 bài, còn thất lạc đâu đó” và kỳ vọng “Cái phần chìm khuất kia hy vọng sẽ dần dần được kiếm tìm, bồi đắp, sung mãn”… Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình “Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới” và “Di sản văn học Quốc ngữ đến 1975”, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn in trên báo Công luận CL, Sài Gòn, 1916-1939 ngoài số đã từng công bố... Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng họa với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ - Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn…; mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi – Bình Định, thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt…; tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu, Theo cách đọc “liên văn bản” có thể thấy thơ Hàn thực sự tiêu biểu cho quá trình hiện đại hóa, tiếp nối giữa hiện tượng sử dụng lối thơ truyền thống với việc gia tăng vai trò nguồn cảm xúc mới; giữa việc khai thác hệ thống chủ đề, đề tài quen thuộc với khả năng bộc lộ tiếng nói của chủ thể trữ tình cá nhân kiểu mới. Đặt trong tương quan so sánh đồng đại có thể nhận ra tứ thơ Gởi cho ai, Nhắn ai, Gởi cho người không quen biết của Hàn tương đồng với những Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết của Tản Đà, rồi tương đồng với những Nhắn nhủ, Nhắn ai, Lại nhắn ai của Quách Tấn, Nói riêng trong phạm vi thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy nhiều câu thơ, ý thơ trong số những bài mới phát hiện này có sự giao thoa, gặp gỡ, tiếp nối với nhiều tứ thơ đã biết để làm nên phong cách độc đáo họ Hàn. Đọc câu thơ Ô hay, người thế toàn yêu quái Họa – CL, số 6671, ra ngày 22-10-1934, lại nhớ ý thơ Ô hay, người ngọc biến ra hơi Mơ hoa; đọc câu thơ Dưới trăng đi lững thững/ Bóng dọi ngắm thành đôi Dưới trăng - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Ai đi lẳng lặng trên làn nước/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi Cô liêu; đọc câu thơ Gió đông mơn trớn nhẹ Hái hoa - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Gió say lướt mướt trong màu sáng Huyền ảo; Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi Bẽn lẽn; đọc câu thơ Em khoe sắc đẹp bên cành lả/ Dáng điệu mơ màng vẻ thướt tha/ Đón cái xuân về vị tỉnh say/ Đỏ rần đôi má ửng hây hây Yêu để sống - CL, số 6802, ngày 6-4-1935, lại nhớ những câu Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha Hoa cúc; Trăng bay lả tả ngả lên cành vàng Rượt trăng; Từ khi đôi má đỏ hây hây/ Em tập thêu thùa, tập vá may… Những lượt thu về, em thấy xuân/ Trên đôi má nõn lại phai dần Duyên muộn; Xuân em hơ hớ như đào non/ Chàng đã thương thương muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín ửng Mất duyên, Những bài thơ mới phát hiện được của Hàn được ký với các bút danh Hàn Mặc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần, có khi ký tên chung Hàn Mặc Tử và Huyền Không nữ sĩ... Trên thực tế, có khi tác giả ký tên ở từng bài CL, số 6423, có khi ký ở bài cuối trong cùng số có nhiều bài khác nhau CL, số 2587, 2610…, có khi ký vài bút danh ở nhiều bài thơ khác nhau trong cùng một số báo CL, số 2610, 6766, 6778…. Đi vào so sánh văn bản những bài thơ của Hàn từng được công bố trên các sách của PCĐ và MGL thì thấy có mấy sự sai khác. Ở bài Đêm khuya tự tình với sông Hương, cả hai sách đều sai hai chữ trong hai câu thơ Trong thành ngự chết con đen, bản gốc in chữ ngự kia là ngũ, đọc đúng là Trong thành ngủ chết con đen; câu Chiếc thuyền vô định tạt vào bến mê, bản gốc là Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê CL, số 6772, ra ngày 2-3-1935, Với bài Tuồng đời, PCĐ sai hai chữ quan trọng ở câu thơ thứ nhất Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên phông, đúng phải là Tuồng đời lăng lố vẽ nên phông CL, số 6790, ra ngày 23-3-1935, Đặc biệt với bài thơ Sống khổ và phấn đấu dài 27 câu, sách PCĐ chỉ in 8 câu trong đó sai chữ ở câu 8, thiếu mất 19 câu CL, số 6802, ra ngày 6-4-1935, 2. Về nguồn văn xuôi Hàn Mặc Tử - Hàn Mặc Tử Bóng liễu bên hồ Truyện ngắn. Sài Gòn, số 657 ra ngày 5-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Muốn yết kiến quan tổng thống Lebrun phải một phen vất vả và kinh sợ Một thiên phóng sự ly kỳ 4 kỳ. Sài Gòn, số 658 ra ngày 7-10-1935, số 659 ra ngày 8-10-1935, số 660 ra ngày 9-10-1935, số 661 ra ngày 10-10-1935, - Hàn Mặc Tử Rửa thù Truyện trinh thám. Sài Gòn, số 659 ra ngày 8-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Tặng anh JID Cái phòng tối hay là một thiên tiểu thuyết ly kỳ trong nghề trinh thám. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Khách Tha Hương Hàn Mặc Tử ??? Tặng anh JID Nước Xiêm cũ và nước Xiêm mới – Một đoạn lịch sử tiến hóa của nước Xiêm. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Lệ Thanh Hàn Mặc Tử Đêm xuân rừng thiền. Sài Gòn, số 753, ra ngày 17-2-1936, 3. Về nguồn phê bình, khảo cứu, dịch thuật của Hàn Mặc Tử Sinh thời Hàn Mặc Tử 1912-1940 không chỉ sáng tác thơ mà còn nêu quan niệm thơ và trao đổi về luật thơ với Phan Bội Châu, Lam Giang, Trương Tửu; có dẫn giải, bình luận thơ Quách Tấn, Bích Khê, Chế Lan Viên; có giảng luận về Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan; có ghi chép văn xuôi, tranh luận về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” của Đinh Bá Kha; có khảo luận về lịch sử Nhật Bản, phong dao Ai Cập; có phác vẽ chân dung nhà văn, nhà triết học người Pháp Rousseau 1712-1778 và nhà thơ, nhà viết kịch người Ireland Yeats 1865-1939, giải Nobel Văn học năm 1923 và đi sâu giới thiệu nguồn thơ tình của người Cộng sản vĩ đại Karl Heinrich Marx – So với dẫn giải trong sách Thơ Hàn Mặc Tử MGL, PCĐ nêu trên, trước hết cần chỉnh lý, chuẩn hóa nhan đề một số bài viết của Hàn không phải Những câu hát phong tình của cổ Ai Cập mà là Những câu hát phong tình của nước cổ Ai Cập; không phải Khái niệm về thi ca làm thơ cần phải luyện khí mà là Khái niệm về thi ca Thơ có mấy lối? Làm thơ cần phải luyện khí; không phải Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về nhân thế Chỉ Cảnh fin de la vie humaine ở học xá Pháp Việt Quy Nhơn mà là Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” ở Học xá Pháp - Việt Quy Nhơn… Đồng thời với việc cung cấp đầy đủ văn bản gốc những bài báo trước nay mới chỉ biết nhan đề, nhân đây chúng tôi giới thiệu thêm một số tác phẩm văn xuôi khác của Hàn vừa tìm lại được Mười lăm phút nói chuyện với bà Lê Thành Tường, cựu chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế Trung Kỳ CL, số 6216, ra ngày 4-4-1933; Khảo về lịch sử Nhật Bản từ nguyên thỉ đến hiện thời CL, từ số 6417, ra ngày 10+11-12-1933; Chết CL, số 6693, ngày 22-11-1934; Rousseau, tiểu thuyết gia CL, số 6760, ra ngày 16-2-1935; Thử ngó qua nước Ái Nhĩ Lan một nhà thi hào được phần thưởng Nobel năm 1924 CL, số 6778, ra ngày 9-3-1935, Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử… Ở đây chỉ xin giới thiệu một phần bài viết Karl Marx thi sĩ của Hàn Mặc Tử in trên báo Công luận Sài Gòn, số 6825, ra ngày 4-5-1935, Nhận diện đời sống văn học đương thời liên quan đến một tập thơ tình xuất hiện ở nước Đức, Hàn Mặc Tử cho biết “Như một tiếng sấm nổ, tập thi ấy Buch der Lieder Ca ngâm thi tập làm chấn động dư luận, đến nỗi Đức quốc phải triệu tập Đại hội đồng Dièle để ra đạo luật cấm không cho lưu hành quyển thi ấy trong nước nữa. Bởi đâu mà tiên sinh có tài liệu phong phú để viết ra tập Ca ngâm ấy? Kết quả, uyên nguyên một phần ở máu nóng của tuổi thanh niên, một phần ở cái tình cảm nồng nàn, thứ tình mơ mộng mà các nhà thi sĩ hầu hết ai cũng có cả. Xa cách ý trung nhân đã lâu, tiên sinh khao khát, nhớ nhung, mà mỗi lần nghĩ tới cái sắc đẹp lộng lẫy, cái phong thái yêu kiều của một vị tiểu thơ con nhà đài các thì tiên sinh lo ngại nàng sẽ về tay các vương tôn công tử khác”… Từ đây Hàn Mặc Tử thông tin khái lược về mối tình thắm thiết của chàng trai trẻ vừa tròn 18 tuổi Karl Marx với Jenny de Westphalen để chàng có thể viết liền ba tập thơ. Những vần thơ yêu đương chân thành giúp cho tình yêu đôi trẻ thêm phần thăng hoa, vượt qua mọi trở ngại, khó khăn “Cái kết quả đầu tiên của những công trình ấy, là ba tập thi văn mà tiên sinh gởi tặng cho người tình hồi tháng Chạp năm 1836, ba tháng sau khi tiên sinh tựu trường ở Đại học đường Bá Linh Đại học Berlin - NHS thêm. Tập đầu nhan đề Ca ngâm thi tập, tác giả Karl Marx, Bá Linh 1836 và hai tập sau Buch der Lieder, Ái tình thi tập, tác giả Karl Heinrich Marx, tháng mười một, năm 1836. Cũng trong năm ấy, lúc nghỉ hè ở thành Trêves, tiên sinh liền đính hôn bí mật với người yêu. Nhờ cái ái tình của đôi bên đã san sẻ cho nhau, tiên sinh sung sướng quá liền hăng hái ngâm vịnh thêm, bổ cứu lại những đoạn khuyết điểm trong mấy tập nói trên kia. Những tập ấy có đề mấy chữ như vầy “Kính tặng tình nương yêu quí Jenny de Westphalen”. Trong một bức thư của người chị tiên sinh gửi đến cho tiên sinh hay rằng, Jenny đọc những hàng chữ ấy thì cảm động quá, cười ra nước mắt”… Dựa trên các nguồn tư liệu từ tập sách tiểu sử xuất sắc Karl Marx The Story of His Life in lần đầu năm 1918 của Franz Mehring, Hàn Mặc Tử đã tỏ ý phản biện và đi đến khẳng định, nhấn mạnh tính chất sinh động, nồng nhiệt của thơ Karl Marx bằng chính bài thơ của Marx. Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi phản vấn rồi khéo định hướng bạn đọc cùng trả lời “Trong tập Tiểu sử Karl Marx, Franz Mehring có phê bình rằng “Những tập thi của Marx có tính cách thiếu niên, đại để đều có chịu ảnh hưởng một thứ văn lãng mạn xấu xa nếu không thấy có những đoạn hay…”. Câu phẩm bình nghiêm khắc ấy có đúng với sự thật không? Xin mời độc giả hãy đọc thử bài thơ của tiên sinh sau đây Tôi không thể ngồi yên không hoạt động, Trong khi tâm hồn bồng bột như sóng. Tôi không thể tọa thị làm thinh, Khi muôn vật quyến rũ tôi vào trận đấu tranh. Tôi muốn chinh phục cả bầu vũ trụ, Nào hưởng lấy ân huệ của ngôi sao Thượng đế, Nào dung hòa những học thuyết trứ danh, Nào hy sinh với tất cả nghệ thuật trọn lành, Hăng hái ta mau sấn bước… Xem một đoạn trên này cũng đủ thấy tính cách thi văn của tiên sinh là ưa hoạt động biết dường nào”... Từ đây Hàn Mặc Tử lý giải cuộc đấu tranh tư tưởng trong Marx về mối quan hệ giữa niềm yêu thơ ca với sự nghiệp chính trị, giữa xúc cảm yêu đương cá nhân với cuộc tranh đấu vì tiến bộ xã hội, giữa sở thích nghệ thuật riêng tư với vận mệnh của cả thế giới loài người rộng lớn. Với những trích dẫn chọn lọc đặc sắc, Hàn Mặc Tử đi sâu phân tích, đúc kết ngắn gọn về khả năng tự phản biện, tự thức tỉnh, chuyển hóa nhằm xác định giá trị và lựa chọn lý tưởng sống “Một năm sau khi gởi tặng vị hôn thê những tập thi lần đầu thì tiên sinh hình như chán ngán với cái danh hiệu “thi sĩ”. Nhưng cũng may nhờ thân phụ tiên sinh viết thơ khuyến khích, nên tiên sinh trở lại âu yếm với Nàng Thơ, tình duyên chưa đến nỗi đoạn tuyệt. Lối tháng ba năm 1837, tiên sinh có viết câu “… Sau kỳ khảo hạch tôi lại đi tìm nàng Ly Tao trong những âm hưởng lâm ly hùng tráng”. Rồi tiên sinh lại nhìn đến những quyển thơ trước kia, tự phê bình rằng “Một mớ cảm tình phức tạp, không có gì là đặc sắc, toàn những câu ngâm huê vịnh nguyệt viển vông… Những tập thơ ấy là cái quan niệm về khoa ngôn ngữ hơn là những tư tưởng về thi văn”. Tự biết mình không thể đeo đai với nghề thơ, tiên sinh bèn đổ cho thơ văn là một món tiêu khiển tạm thời. Bắt đầu năm 1837, Karl Marx mới “ly dị” hẳn với Nàng Thơ. Vì tiên sinh lúc ấy chuyên chú về triết học, quyết tâm áp đảo tay địch thủ là Hegel”... Đến đoạn cuối, Hàn Mặc Tử cho biết trước sau Karl Marx vẫn không xa rời được thơ ca, không xa rời được nguồn sáng trào lưu lãng mạn do Goethe 1749-1832 khởi xướng từ vài ba thập kỷ trước. Điều này xác nhận thơ ca thuộc lĩnh vực tinh thần thực sự cao sang, trí tuệ, có giá trị và sức hấp dẫn riêng, cho đến chính Karl Marx vẫn mãi gắn bó “Thời kỳ ấy những thi ca bình dân rất thạnh hành ở nước Đức. Nhà thi sĩ Goethe lúc bấy giờ còn là học sanh ở Strasbourg, liền triệu tập một số danh nhơn trong khi du ngoạn ở Alsace và lập thành lối văn lãng mạn Ecole Romantique. Những nhà văn có tiếng tăm như Schlegel, Tieck, Novalis, Clemens, Brentano và Achim von Arnim, Eichendorf, đều có xuất bản nhiều tập thi ca… Bị phong trào lôi cuốn, Marx lại tham dự vào công cuộc ấy”... Hàn Mặc Tử cho đăng báo bài viết Karl Marx thi sĩ vào năm 1935, khi thi sĩ mới ngoài hai mươi tuổi, chưa thành danh, chưa xuất bản tập thơ nào. Bài báo thể hiện sự đồng điệu của hồn thơ Hàn Mặc Tử từ nước Việt thuộc địa phương Đông với tiếng thơ của người đứng đầu phong trào Cộng sản quốc tế. Qua sự kiện này có thể xác định Hàn Mặc Tử đã có sự hiểu biết quan trọng về cuộc đời, sự nghiệp và thơ ca Karl Marx. Điều quan trọng hơn, giữa vòng vây của chế độ kiểm duyệt đương thời, cây bút trẻ Hàn Mặc Tử vẫn có cách giới thiệu, tuyên truyền, đưa thơ Karl Marx và quan điểm nghệ thuật của Marx Trẻ đến với đông đảo công chúng bạn đọc. III. QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN HÀN MẶC TỬ QUA CÁC THỜI KỲ 1. Người đương thời tiếp nhận thơ Hàn Mặc Tử *** - Chương Đài Gái quê của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 178, ra ngày 1-12-1936, Chưa Foto… - Hàn Mặc Tử Những văn tài mới nở Chế Lan Viên − thi sĩ của vong quốc Chiêm Thành. Tràng An báo, số 235, ra ngày 6-7-1937, - Trần Thanh Địch Thi sĩ với ngày xuân. Tràng An báo, số 292, ra ngày 25-1-1938, - Một Nữ Thính Giả Bình Định lắm duyên với thi sĩ. Tràng An báo, số 326, ra ngày 3-6-1938, số 327, ra ngày 7-6-1938, số 328, ra ngày 10-6-1938, - Hoàng Diệp Một cái tang trong thi giới Hàn Mặc Tử đã từ trần ở Qui Hòa. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, *** Một di cảo của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, - Hoàng Diệp Thơ Hàn Mặc Tử dưới mắt tôi. Tràng An báo, số 681, ra ngày 24-2-1941, - Phất Văn Tử Một buổi diễn thuyết về Hàn Mặc Tử ở Hội Cercle d’etudes Qui Nhơn. Tràng An báo, số 847, ra ngày 13-9-1941, - Phó Xuyên Hà Xuân Tế Thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 893, ra ngày 7-11-1941, - Tài Xuyên Mùa xuân với thi nhân. Tràng An báo, số 974, ra ngày 21-2-1942, số 975, ra ngày 23-2-1942, số 976, ra ngày 24-2-1942, số 977, ra ngày 25-2-1942, - Nguyễn Tiến Lãng Quyển Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại. Tràng An báo Bộ mới, số 25, ra ngày 9-6-1942, - Nhân ngày đại tường của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo Bộ mới, số 87, ra ngày 14-11-1942, - Đỗ Hữu Phú Thi sĩ với mùa xuân. Tràng An báo, số 402 Bộ mới, ra ngày 8-2-1945, 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở các vùng đô thị miền Nam 1945-1975 Có các tác giả Hoàng Trọng Miên, Châu Hải Kỳ, Nguyễn Văn Xê, Phạm Xuân Tuyển, Hoàng Diệp, Quách Tấn, Lê Huy Oanh, Nguyễn Kim Chương, Võ Long Tê, Phạm Đán Bình, Bùi Xuân Bào… 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở miền Bắc 1945-1975 Chủ yếu phê phán, qui kết “cái tôi cá nhân”, “suy đồi”… 3. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử từ thời Đổi mới 1986 đến nay Nhiều sách. Tập trung trong HMT – Về tác gia và tác phẩm Phan Cự Đệ và Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn, giới thiệu… Phụ lục - NHS Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239-2018, 1. Dựa trên hệ thống văn bản tác phẩm Hàn Mặc Mạc Tử hiện đã được xuất bản, cần ghi nhận và khẳng định trên hết, trước hết tinh thần Công giáo, niềm tin Kinh Thánh, sùng kính Đức Mẹ Maria chính là dòng mạch tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm của ông . Đây là một lẽ hiển nhiên bởi Hàn Mặc Tử “thuộc gia đình Công giáo lâu đời, tên thánh rửa tội là Phêrô, thánh thêm sức Phanxico Xavie” , sau này vì những nỗi đau thể xác và tinh thần mà ông càng hằng sống trong nguồn sáng Chúa cứu thế an lành… 2. Nghiên cứu định lượng trường hợp thơ Hàn Mặc Tử có thể thấy một tỉ lệ nhất định những bài thơ, câu thơ, ý thơ và ngôn từ bộc lộ cảm quan Phật giáo xuất hiện bên cạnh dòng chủ lưu tâm linh Thiên Chúa giáo. Với hệ thống các bài thơ Chùa Ông Núi Phù Cát, Chùa hoang, Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa, Gái ế chồng đi tu, Gái ở chùa, Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi, Đêm ngủ trong chùa Ông Núi, Ngoạn cảnh chùa 2 bài, Huyền ảo, Cao hứng, Phan Thiết! Phan Thiết…, Hàn Mặc Tử đã thể hiện rõ cảm quan Phật giáo trong sáng tác của mình. Hiện tượng sáng tác giao thoa, tiếp nhận định hướng tư tưởng và cảm quan Phật giáo kiểu này càng trở nên độc đáo khi chúng ta biết rằng Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo và tác phẩm của ông cũng căn bản thuộc về nước Chúa… Tại mục bài Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí in trong sách Nhà văn hiện đại Quyển ba. Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1943, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan xác định “Thơ Đường luật của Hàn Mạc Tử không phải bài nào cũng được toàn bích như bài trên này Buồn thu – NHS chú. Nhiều bài ý cũng rất sáo và phảng phất có cái giọng thời thế, nửa lối Tú Xương, nửa lối Thanh Quan. Thí dụ bài sau này đăng trong Phụ nữ tân văn số 97-27 Aout 1931, trang 16 và ký tên là Qui Nhơn Chùa hoang Mái sụp, tường xiêu, khách ngẩn ngơ, Hỏi thăm duyên cớ, Phật làm lơ! Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa. Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu tá? Để khách trầm luân luống đợi chờ! Thơ Hàn Mạc Tử hồi đầu như thế, mà chỉ bảy tám năm sau đã thay đổi hẳn, thay đổi cả ý lẫn lời. Trong thời kỳ đổi mới này, ông soạn được rất nhiều thơ và chia ra nhiều tập Thơ Điên, Xuân như ý, Thượng Thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội” … Xin nói thêm, bài thơ Chùa hoang còn được Nguyễn Bá Tín 1915-?, em ruột Hàn Mặc Tử, giới thiệu với nhan đề Chùa Ông Núi Phù Cát trong khi ông lại đưa ra một bài Chùa hoang khác, sẽ nói sau, chỉ sai khác có hai chữ trong câu mở đầu Mái dột tường xiêu liễu ngẩn ngơ , Hỏi thăm duyên cớ Phật làm lơ. Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa . Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu đó, Để khách trầm luân luống đợi chờ. Chùa Ông Núi Phù Cát Bài thơ đề vịnh cảnh “chùa hoang” - chùa Ông Núi, nơi thi sĩ từng đến viếng cảnh, ăn cơm chay và ngủ lại. Đến nơi đây, thi sĩ chạnh lòng trước qui luật thời gian, trước cảnh vật đổi sao dời, bày tỏ nỗi niềm bâng khuâng về giới hạn con người trước cõi Phật, đất trời, vũ trụ… Vào chặng đường sáng tác thứ nhất, tức trước khi xuất bản tập Gái quê 1936, Hàn Mặc Tử có nhiều bài thơ in đậm cảm quan Phật giáo, vừa gắn bó với cảnh chùa vừa bộc lộ suy tư trước Phật đài, cõi Phật và lẽ sắc sắc – không không nhà Phật. Hàn Mặc Tử từng đi du xuân, vãn cảnh và đề vịnh cảnh chùa theo phong cách truyền thống. Thi sĩ đến với cửa chùa trong tư cách người du ngoạn, bỡ ngỡ khám phá cảnh quan ngôi chùa tựa như cõi Thiên Thai bồng lai tiên cảnh và viết bài thơ đề vịnh liên hoàn gồm bốn khúc tứ tuyệt I Tức cảnh đề thi trước cửa chùa, Mỹ nhân năm ngoái lạc vào chùa. Quanh hồ cỏ mọc hoa sen vắng, Phưởng phất mùi hương ngọn gió đưa. II Gió đưa tiếng kệ thoảng bên tai, Đề vịnh tiêu dao trước Phật đài. Nét chữ đan thanh còn rỡ rỡ, Phong lưu gấp mấy bạn Thiên Thai. III Một năm tu đến một lần thôi, Một bữa cơm chay cũng khó coi. Một chén trà dâng chưa phải cách, Một câu mô Phật, một câu mời. IV Êm đềm mát mẻ khí ban mai, Đến Phật nghe câu sướng lỗ tai, Bảy bước thành thơ mau mắn lạ, Ra về tưởng lạc lối Thiên Thai. Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa Trong một bài thơ thất ngôn, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử đã qui nạp và phán xét trường hợp một người được,/ bị xem là gái ế chồng nên phải đi tu, coi chuyện đi tu cũng là một lối giải thoát. Có thể xem đây như cách cảm nhận của kẻ trần tục, kẻ khác, người đứng bên lề Phật giáo mà cảm nhận, soát xét, qui kết chuyện tu hành qua một trường hợp giả định Đem cánh xuân tàn gởi cửa không, Hôm mai kinh kệ cũng thay chồng. Sạch miền tục lụy giòng khe chảy, Tàn khối chung tình tiếng mõ buông. Hương lửa ba sinh nguyền với Phật, Nước non một cảnh chứng cho lòng. Ngành dương tưới mát cành hoa héo, Nào bận trần ai chút bụi hồng. Gái ế chồng đi tu Bài thơ nhận được sự quan tâm, tán thưởng trong dư luận. Chỉ hai tuần sau đã có Hồ Thế Hiệp từ Đà Lạt gửi bài thơ họa và cũng cùng một cách cảm, cách nghĩ Từ bi hai chữ thiệt hay không? Có ế thì rao há chẳng chồng. Thóa cách tục trần theo giải cấm, Qui y cửa Phật bỏ nhà buôn. Bồ đề một chuỗi lần đòi bữa, Kinh kệ vài câu niệm thuộc lòng. Đầu trọc cũng vì chưng Nguyệt lão, Không xe nỏ chắp mối tơ hồng. Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu” Hai năm sau, cùng trong một số báo, Hàn Mặc Tử có liền bốn bài thơ liên quan đến Phật giáo, chuyện tu hành và cảnh chùa. Thi sĩ lại có dịp bàn về chuyên đề nữ giới tu hành in đậm tư duy thế sự, con người thế sự, góc nhìn và thước đo thế sự phàm trần. Bài thứ nhất thiên về đoán định thân phận người phụ nữ ở chùa hơn là diễn tả tâm trạng chúng sinh nhập cuộc cảnh chùa Rừng thiền thấp thoáng dạng quần thoa, Khuê các mà ra đến nỗi à! Cuộc thế chưa chi mà vội chán, Trò đời mới đó đã lo xa. Lợt mùi son phấn say mùi đạo, Chán cảnh phiền ba mến cảnh chùa. Bà Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm, Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa! Gái ở chùa Theo Phan Cự Đệ, bài thơ này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn số ra ngày 11-10-1931, có sai khác tới 14 chữ … Điều đặc biệt là cùng trang trên số báo Công luận này lại đăng ngay bài họa của nhà chí sĩ Phan Bội Châu 1867-1940, ký bút hiệu Sào Nam, ghi rõ là “Họa nguyên vận” Bản lai không vết cậy gì thoa, Há gặp đâu thì cũng thế à! Một chữ đã đành thân gắn bó, Trăm năm phải tính cuộc gần xa. Tủi vì cái kiếp con không mẹ, Hổ cũng như ai sãi có chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Ngành dương mưa rưới vạn ngàn hoa! Thú vị hơn nữa là dưới nhan bài thơ Gái ở chùa của Hàn Mặc Tử có lời chú “Hai bài nầy chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp dân báo năm 1930. Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt tái đăng những bài xướng họa của cụ Sào Nam”. Cách duy danh “chúng tôi” ở đây hàm nghĩa đại diện cho cả Sào Nam Phan Bội Châu. Điều này xác định mối giao hảo thâm tinh giữa thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử với bậc chí sĩ - nhà thơ túc nho Sào Nam danh tiếng lẫy lừng, đồng thời cho biết cả hai bài thơ đều đã được in trên Thực nghiệp dân báo từ 5 năm trước. Vẫn chưa hết, ngay trên báo Công luận số này còn có thêm bài họa vần của nhà thơ chuyên Đường thi Quách Tấn 1910-1992 nổi tiếng Lược chẳng cài mà phấn chẳng thoa, Cửa không đành khép cánh xuân à! Gió thông đưa kệ mùi hương thoảng, Vóc liễu gầy sương bóng nhạn xa. Duyên nợ chồng con tràng chuối hột, Chuyện trò hôm sớm tiếng chuông chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Đã tu thôi gắng tu cho trọn, Chớ để tòa sen bướm lộng hoa. Họa vận Ở bài thứ hai, Hàn Mặc Tử viết về cảnh chùa với tâm thức ngờ vực, nghi ngại và chiêm nghiệm về ngôi chùa như một sự tàn cuộc Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắt cành thông thay mõ đánh, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Bên thềm khắc khoải giọng quyên kêu. Chùa hoang Theo Phan Cự Đệ, bài này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn, số ra ngày 11-10-1931 … Nguyễn Bá Tín lại cung cấp một văn bản khác … Bài thơ này có chung nhan đề như Vũ Ngọc Phan đã dẫn nhưng khác hẳn về câu chữ. Ngay dưới bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử trên báo Công luận có liền hai bài họa. Thứ nhất là bài của Phan Bội Châu với nhan đề Cụ Sào Nam họa chắc do tòa soạn đặt Ba vạn giang sơn chút tẻo teo, Ai dò bể Phật đến nguồn đâu! Kệ thần mặc ý trong lòng niệm, Đèn tuệ tha hồ trước gió treo. Bờ nọ thuyền đưa dòng họ tới, Trời nầy mưa khóc cỏ cây rầu, Xưa nay Phật pháp vô biên lượng, Muôn nước ngàn non một tiếng kêu. Cụ Sào Nam họa Thứ hai là bài thơ với nhan đề Họa vận của Đoàn Tá, cuối bài có ký chú “Phan Thiết” sáng tác ở Phan Thiết? người Phan Thiết và sáng tác ở Phan Thiết? Quang cảnh chùa nầy ngó vắng teo, Hoang vu như thế bởi vì đâu? Nhà tăng thềm mốc ba căn trống, Tượng Phật tường rêu một bức treo. Đại xá cần chi đem lễ lạc, Âm phò xin chớ nệ hương dầu! Thập phương ai kẻ lòng từ thiện, Nỡ để quanh chùa tiếng dế kêu. Họa vận Truy tìm tiếp các nguồn tư liệu thì thấy bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử sau khi in trên Thực nghiệp dân báo 1931 và trước khi in trên Công luận 1935 còn được in trong mục Văn uyển trên báo Phụ nữ tân văn với bút danh “ Qui Nhơn” là viết tắt bút danh Phong Trần của Hàn Mặc Tử, trong đó có sự sai khác 8 chữ so với bài in Công luận Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắc cành thông thay tiếng kệ, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương rầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Thế cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Trước thềm khoắc khoải dọng quyên kêu. Chùa hoang Như vậy, riêng bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử đã in trên ba tờ báo khác nhau cùng xuất bản ở Sài Gòn vào ba năm khác nhau 1931, 1932, 1935 và hai lần có in bài người họa 1931 Quách Tấn, 1935 Sào Nam, Đoàn Tá… Trong bài thứ ba, Hàn Mặc Tử tả thực, kể thực và nói thật chuyện ăn cơm chay ở một ngôi chùa cụ thể Ngọt ngon từng trải nếm chay chùa, Lạt lẽo dầu sao cũng gắng lua. Nhưng mới “và” sơ nghe đã ớn… Nước gì nếm thử thấy chua chua. Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi Đến bài thứ tư, bài cuối cùng trong chùm bài viết về cảnh chùa, Hàn Mặc Tử tiếp tục tả thực và diễn tả tâm thế thử nhập cuộc vào thế giới nhà Phật, rút cuộc vẫn tỉnh trơ trong cõi đời thường nhật Đặt mình xuống phản đã chiêm bao, Thế giới ba ngàn ngó lạ sao!... Bay thoảng mùi hương thơm ngạt mũi, Té ra cửa Phật có hoa đào!... Đêm ngủ trong chùa Ông Núi Trên thực tế, chùa Ông Núi là cách gọi Nôm của thiền tự Linh Phong thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Chùa có địa thế “Tọa sơn vọng hải”, tính đến nay đã có lịch sử trên ba trăm năm. Dấu tích chùa Ông Núi trải qua chiến tranh chống Mỹ khốc liệt chỉ còn lại hang Tổ nằm trên lưng chừng núi Chóp Vung. Chùa mới được xây dựng lại với qui mô lớn, trong đó có tượng Phật ngồi đúc xi măng cốt thép bề thế bậc nhất Đông Nam Á và đã được xếp hạng di tích Lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Với Hàn Mặc Tử, thi sĩ đã có riêng ba bài viết về chùa Ông Núi – Linh Phong, biểu cảm tiếng nói một người có cơ duyên với Phật giáo, chủ động hòa nhập với cuộc sống tu hành và gián cách rút ra bài học cần thiết về đức tin, lẽ sống, kinh nghiệm sống cho riêng mình. Trong một trường hợp khác, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có bài thơ Ngoạn cảnh chùa theo thể Đường luật bát cú in trên báo Sài Gòn số ra ngày 18-11-1935 Đề huề trăng gió đến Thiên Thai, Cảnh trí thần tiên bước lạc loài. Ngắm nghía non sông, vầng khói tỏa, Vạch vùng hoa cỏ, hạt sương rơi. Cây sum suê lá, chùa nương bóng, Suối láng lai dòng, khách rửa tai. Phàm tục đến đây nhờ Phật độ, Đừng vương vấn nữa nợ trần ai. Ngoạn cảnh chùa Ngay sau đó, cuối bài hát nói Ngoạn cảnh chùa in trên báo Sài Gòn, cũng với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có thêm ký chú “Đề tại chùa Ông Núi. Mùa hè năm 1930”. Có thể xác định bài thơ đã in đâu đó hoặc mấy năm sau mới đưa in trên báo Sài Gòn số ra ngày 28-11-1935 Khách trần rẽ lối Thiên Thai, Cỏ hoa lạ mặt tươi cười làm quen. Xinh thay phong cảnh rừng thiền, Bầu sen hương ngát cạnh đền suối reo. Nói Bích Khê động khẩu, ưng trường tại, Khách trần ai bước tới ngỡ non tiên. Thấy hoa cỏ lạ muốn làm quen, Lòng thấm thía mùi thiền như thoát tục. Thủy nhiễu môn tiền ba lộng nguyệt, Phong lai lâm hạ ảnh phiêu dương. Chuông tế độ thức tỉnh bạn văn chương, Bầu trăng gió dễ thường quên nhắm nhía. Im mát bóng đàm hoa phước địa, Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng. Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên. Ngoạn cảnh chùa Có thể thấy cả hai tác phẩm sau này đều in đậm cảm quan Phật giáo nhưng đan xen trong đó là cảm xúc hòa hợp với môi trường thiên nhiên, cảnh sắc trời mây, núi non, cây cỏ. Hàn Mặc Tử hòa nhập với “lối Thiên Thai”, đất trời “cảnh trí thần tiên” và muốn kéo cả cõi Phật về thực tại phàm trần Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng./ Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên… Có thể xác định và khẳng định tiến trình phát triển nguồn sáng tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử đã từ chỗ dung hòa đến nhấn mạnh, chuẩn hóa, linh hóa niềm tin Thiên Chúa. Có thể ghi nhận hiện tượng này như một sự lựa chọn đức tin của cá nhân Hàn Mặc Tử cũng như tương quan Phật giáo – Thiên Chúa giáo trong tổng thành đời sống tư tưởng tâm linh Hàn Mặc Tử. Ý kiến của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử Chế Lan Viên, Quách Tấn, Nguyễn Văn Xê, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Bá Tín, Yến Lan, Trần Thanh Địch, Hoàng Diệp, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Viết Lãm, Phạm Đán Bình, Phan Xuân Sanh, Nguyễn Tấn Long, Phan Cự Đệ, Võ Long Tê, Lê Huy Oanh, Phạm Đình Khiêm, Nguyễn Thị Tuyệt, Lê Tuyên, Bùi Tuân, Đặng Tiến, Thái Văn Kiểm, Trăng Thập Tự, Lê Văn Lân, Trần Cao Tường, Lê Đình Bảng, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy, Bích Thu,… đã cho thấy rõ điều này. Vào khoảng giữa năm 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân đã lọc trong muôn một nẻo đường tư tưởng thơ Hàn Mạc Mặc Tử rồi đi đến xác quyết nội dung tâm linh tập thơ Xuân như ý trong tổng thành một sự nghiệp thi ca “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử. Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với dị thảo của thi nhân. Hưống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng minh rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể” . Một nhà phê bình nổi tiếng đương thời là Vũ Ngọc Phan cũng đánh giá cao tiếng thơ chí thành tụng ca đạo Gia Tô và khẳng định vị thế nguồn cảm hứng mới trong nền thơ triết học, thần học, tôn giáo, tâm linh hiện đại “Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mạc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ đồng trinh Marie và chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới… Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mạc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm, mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới” … Cho dù có người như nhà thơ Quách Tấn 1910-1992 nhiệt tình bênh vực, khẳng định cho một tâm thế Phật trong thơ Hàn Mặc Tử “Trong thơ Hàn Mạc Tử có nhiều bài ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài Phan Thiết! Phan Thiết! Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu suất! Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật như “thành chánh quả”, “Sông Hằng”, ngoài những hình ảnh tươi đẹp của trời “Đao Ly”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh sáng – “chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình... Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà... Những ánh sáng vô cùng, những “tiếng nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những “điệu nhạc rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác”, “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc” ở trong thơ Tử là vang bóng của vô lượng quang trên Thế Giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua Kinh A Di Đà” … Và cho dù thêm một lần Trần Thị Huyền Trang phác ghi lại ký ức của Quách Tấn về câu chuyện nghĩa tình khói sương Hàn Mặc Tử - ni cô, hay là góp thêm một giai thoại về thơ Hàn “Ở chùa Liên Tôn thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, có một nữ tu nhan sắc kiều diễm thùy mị, tư chất quang minh, sở học không thua kém hàng nam nhi đương thời, xuất gia đầu Phật khi tuổi còn đôi tám. Nàng là cháu gái của vị sư cụ trụ trì trước đó thường gọi là thầy tú Liên Tôn thế danh Võ Trấp, 1891-1951; NHS thêm, được sư cụ thương chiều, thường cho phép cùng tiếp khách trí thức mà phần đông là chỗ bà con họ hàng đến viếng cảnh chùa, đàm đạo thơ văn. Nhà thơ Quách Tấn, cháu gọi nữ tu bằng cô họ xa, là một trong số các bậc trí thức đã cùng nàng tương kiến. Ngoài thời gian kinh kệ công phu, nữ tu chuyên tâm đọc sách. Nàng rất nhạy bén với các tên tuổi văn chương ở quê hương thời ấy như Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên… Song biết để biết thế thôi, cái khoảng cách nhất định giữa màu thiền và màu thế không cho phép nàng giao du rộng rãi với các nhà thơ trẻ cùng thời. Song có một lần, nàng chủ động đến gặp Hàn Mặc Tử. Những bài thơ tài hoa và phóng túng, những giai thoại lưu truyền trong vòng thân mật bạn bè và tính tình, tư chất và hoàn cảnh của nhà thơ trẻ tuổi tài cao này đã làm nữ tu chú ý. Tuy vậy, nàng chưa một lần tìm cơ hội tiếp xúc. Thế rồi một hôm nữ tu rời chùa Liên Tôn xuống Quy Nhơn, nàng tình cờ gặp nhà thơ Quách Tấn. Được biết Quách Tấn sắp vào thăm Hàn Mặc Tử, nữ tu xin cùng đi. Hàn Mặc Tử tiếp đón rất ân cần và đàm đạo với nữ tu về đạo Phật rất tương đắc. Khi nữ tu ra về, Hàn Mặc Tử nói riêng với nhà thơ Quách Tấn - Anh ạ, thật là một tấm lòng trong, thơm và rộng lớn. Từ đó, không một lần tái ngộ. Nhưng cuộc gặp gỡ và chuyện trò đặc biệt ấy đã để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều xúc động và những ấn tượng khó quên. Thi sĩ đã nhắc đến hai tiếng ni-cô với thái độ trang trọng và yêu kính xa xôi trong những vần thơ êm ả nhất của mình. Trong Huyền ảo, nhà thơ viết Mới lớn lên trăng đã thẹn thò Thơm như tình ái của ni cô Gió say lướt mướt trong màu sáng Hoa với tôi đều cảm động sơ. Và trong bài Cao hứng Thơ tôi thương huyền diệu Mọc lên đạo Từ Bi Tôi bắt chước Hy Di Ngủ một trăm ngày dậy… … Cho tôi hoa đền Ngự Cho tôi lòng ni cô Xuân trên má nàng thơ Ngon như tình mới cắn. Đó là những bài thơ phản chiếu tâm hồn Hàn Mặc Tử trong những lúc nguôi dịu bi thương, khi nỗi đau đớn của thể xác, nỗi bức bối đến điên cuồng của tinh thần tạm thời lắng xuống. Đó là lúc lòng chàng tựa vào kỷ niệm, tựa vào thơ và những ước ao trong sáng để tìm nguồn an ủi vô biên. Có lẽ khi trở về với giọt nước cành dương, người nữ tu có thêm một chút xót xa về con người hiện hữu, một tình thương đầy sự chia sẻ cụ thể đối với người thi sĩ tài hoa mệnh bạc Hàn Mặc Tử. Cùng tiếng kệ lời kinh, người nữ tu tựa vào số kiếp ấy, nguyện cầu cho thơ” … Trên thực tế kết quả sưu tập, phát hiện văn bản cũng như chính nội dung tác phẩm có thể thấy Hàn Mặc Tử đã thể hiện khá rõ cảm quan Phật giáo, bộc lộ sắc nét bản tính khoan dung, dung hợp mỹ cảm Phật giáo, khả năng tiếp nhận, chấp nhận, đan kết tư tưởng phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại … 3. Lời kết mở Rút cuộc, nhiều ít có thể chia xẻ ý kiến “Có một sự tranh chấp Hàn Mạc Tử giữa những tín đồ đạo Thiên Chúa và đạo Phật… Cũng một bài Tựa Xuân như ý cùng một số bài thơ như Ra đời, Điềm lạ, Xuân đầu tiên mà mỗi người giải thích một cách” … Tuy nhiên ở đây, theo tôi, cần đặc biệt nhấn mạnh việc xác định đặc điểm và tiến trình phát triển thiên hướng tôn giáo qua trường hợp Hàn Mặc Tử quyết không nhằm phân biệt, phân chia, định dạng sự hơn thua, cao thấp. Xét trong bản chất, khả năng dung hợp Phật giáo và sự lựa chọn niềm tin Thiên Chúa chỉ càng góp phần làm sáng lên phẩm chất nhân văn của Hàn Mặc Tử và thơ Hàn Mặc Tử. Hà Nội, tháng 7-2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xin xem Trần Quang Chu Sưu tầm và khảo cứu [2018], Thơ văn Hàn Mạc Tử. Nxb Văn học, Hà Nội, 668 trang. 2. Phan Cự Đệ [2002], Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm. Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Hồ Thế Hiệp [1933], Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu”. Công luận, số 6221, ra ngày 9-4. 4. Vũ Ngọc Phan [2000], Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí. Nhà văn hiện đại, Tập 4. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2. 6. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Nguyễn Thanh Tâm [2014], Đọc “Có một vườn thơ đạo”. Nghiên cứu Văn học, số 10. 8. Quách Tấn [1935], Họa vận. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 9. Quách Tấn [1969], Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử. Tập san Niềm thương, Bộ mới Nha Trang, số 13-14.. 10. Hoài Thanh - Hoài Chân [1998], Thi nhân Việt Nam, 1932-1941. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 11. Lệ Thanh [1933], Gái ế chồng đi tu. Công luận, số 2610, ra ngày 26+27-3. 12. Nguyễn Bá Tín [1991], Hàn Mặc Tử anh tôi. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 13. Nguyễn Bá Tín [1994], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 14. Nguyễn Bá Tín [2015], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nguồn 25 thg 5 15. Trần Thị Huyền Trang Sưu tầm và biên soạn [1991], Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 16. Hàn Mặc Tử [1935], Chùa hoang. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 17. Hàn Mặc Tử [1933], Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa. Công luận, số 2587, ra ngày 26+27-2. 18. Hàn Mặc Tử [1935], Gái ở chùa. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 19. Hàn Mặc Tử [1932], Chùa hoang. Phụ nữ tân văn, số 122, ra ngày 10-3. 20. Hàn Mặc Tử [1935], Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-35. 21. Hàn Mặc Tử [1935], Đêm ngủ trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 22. Hàn Mặc Tử [1994], Chùa Ông núi Phù Cát. Dẫn theo Nguyễn Bá Tín Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội… CÙNG MỘT TÁC GIẢ 1. Nguyễn Hữu Sơn [2012], Hàn Mặc Tử bàn về Thơ mới giữa đương thời Thơ mới. Tân Trào, số 327, ra kỳ 1-8-2012, 2. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2, 3. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Thi sĩ Hàn Mặc Tử với Kar Marx. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 999, ra ngày 10-5-2018, Văn nghệ Hội Nhà văn VN, số 19, ra ngày 12-5-2018, 5. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239, 6. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 1008, ra ngày 10-8, Hàn Mặc Tử- Hồn thơ bí ẩn và phức tạp nhất trong phong trào Thơ Mới Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử lạ nhất, phức tạp nhất, bất hạnh nhất, bí ẩn nhất. Như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời… Là sản phẩm của nguồn thơ điên bằng đau thương đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dọ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng. Bên dưới mỗi hàng chữ sáng tươi là cả một mối u hoài. Tuy không có những tiếng rên la, những hình ảnh kì dị, ma quái, nhưng mạch liên tưởng toàn bài cũng rất lạ lùng, đứt đoạn, phi logic, cóc nhảy ngoại cảnh – tâm cảnh, tươi sáng- âm u, hi vọng – thất vọng kết nối tương phản. Đó là hai phía của một khối u hoài uẩn khúc. Khổ đầu ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như lời mời mọc từ bên ngoài, hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa, khát khao, rạo rực. Khổ 2 ước mong khẩn thiết dâng lên hoá thành hoài vọng chới với, nghẹn ngào. Khổ 3 mong ngóng vừa ló rạng hoá thành nỗi hoài nghi. Liên tưởng điên – phi lôgic tạo ra âm hưởng nhất quán, vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Tất cả xuất phát từ tình yêu tuyệt vọng – mặc cảm sâu xa của Hàn Mặc tử. […] Trong bệnh tật, tâm hồn Hàn hình thành hai thế giới trong này và ngoài kia phân định nghiệt ngã, cách nhau bằng cả tầm tuyệt vọng. Ngoài kia là mùa xuân, thắm tươi, trăng, nhạc, ánh sáng, hạnh phúc, thiên đường, hi vọng,… Trong này chẳng có mùa, là đêm tối, địa ngục, khổ hạnh, âm u, mờ nhân ảnh, lãnh cung… trong này chỉ còn về lại được ngoài kia bằng ước ao thầm lén, khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng mà thôi! Tấm thiệp của Hoàng Cúc đã đánh thức khát vọng về cái ngoài kia. Thôn Vĩ Dạ là địa chỉ khởi đầu của ngoài kia trong hồn Tử. Khát vọng về thăm Vĩ Dạ của Tử cũng là khát vọng về ngoài kia. Vườn xa, thuyền xa, đường xa hợp thành thế giới ngoài kia đối lập với ở đây — trong này. Sự tương phản giữa hai miền không gian không chỉ là mặc cảm của con người đang sắp chia lìa cuộc đời mà còn là mặc cảm của thi sĩ đang phải lìa xa cái đẹp mà anh đang tôn thờ, chiêm ngưỡng. Cái đẹp, theo quan niệm của Tử là thanh khiết, thanh tú, trinh nguyên, vẻ đẹp của vườn, nắng, trăng, thuyền, khách đường xa là biểu hiện cụ thể của vẻ đẹp ấy. Và mặc cảm chia lìa là mặc cảm tuyệt vọng khiến cho nó trở nên khắc khoải, da diết. Câu hỏi mở đầu là lời Tử phân thân để hỏi chính mình. Ba câu sau tả vườn. Nắng tinh khiết thanh tân lan toả trên những hàng cau, thân cau, lá cau, biến cả Vườn thành viên ngọc lớn. Vườn toả vào không gian những ánh xanh của ngọc thanh tú và cao sang. Chữ ai chuyển tải cảm giác xa xót, thực tại xa vời, tồn tại mong manh ở ngoài tầm với, thuộc thế giới ngoài kia. Từ quá chỉ mức độ, là tiếng kêu ngạc nhiên, ngỡ ngàng như chợt nhận ra vẻ đẹp của vườn trong khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Mặt chữ điền là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu là mặt người thôn Vĩ thì sẽ là mặt phụ nữ vì một người đàn ông thôn Vĩ trở về không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông. Nếu là mặt người trở về thôn Vĩ thì chỉ có thể là khuôn mặt của Tử tự họạ chân dung của mình đầy kiêu hãnh và vơ vào. Có thể hiểu cả hai cách như trên. Qua lăng kính chia lìa, tuyệt vọng tình yêu, những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Đó là thiên đường trần gian nhưng không thuộc về mình nữa. Về thôn Vĩ là việc bình thường nhưng với Tử lại quá tầm tay với, thành hạnh phúc ngoài tầm tay. Khổ 2 không chỉ tả dòng sông Hương mà dòng sông nào đó thể hiện mặc cảm chia lìa, phiêu tán. Tất cả như đang bỏ đi, ngang trái trớ trêu. Chữ lay rất hay. Từ câu ca dao hiện về trong hồn Tử chăng? Ai về trồng dứa qua truông Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em! Hay là Lá ngô lay ở bờ sông, Bờ sông vẫn gió người không thấy về. Trúc Thông Sông trăng và thuyền trăng huyền ảo càng thêm huyền ảo. Nhưng đó cũng mới là vẻ đẹp bề nổi, dễ thấy. Chữ kịp mới mang bi kịch tâm hồn nhà thơ. Mặc cảm thân phận trong hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, từng ngày, từng khắc. Cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Mong mỏi, đau thương và tuyệt vọng. Khổ 3 khắc khoải hoá thân thành nhịp điệu. Gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn. Hình ảnh người con gái áo trắng tinh khiết được Tử tôn thờ là hiện thân của thế giới ngoài kia với sắc áo trắng nhoà nhạt đến mức nhìn không ra. Đến đây, Tử mới trở về nơi tồn tại của mình, với lãnh cung chia lìa bất hạnh của mình. Cuộc đời ngoài kia vẫn thắm sắc và vẫn cách ở đây một tầm tuyệt vọng, vẫn cách xa một tầm tay với. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu Tử với trần gian. Mà xem ra cái tình ấy cũng mong manh làm sao! Xem thêm Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11 Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ “Thức khuya” của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp, nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công Luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập “Gái quê”, rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại “phong ngứa”, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 – 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc “găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.”Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile – Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn. Bác sĩ nói rằng Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học thời đó chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều điểm khác. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng Phan Thiết, qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn hansen gây đó, vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bệnh nhân thường bị hắt hủi, cách ly, xa lánh, thậm chí bị ngược đãi. Hàn Mặc Tử cũng không ngoại tác của Hàn Mặc Tử• Lệ Thanh thi tập gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật • Gái Quê 1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời • Thơ Điên hay Đau Thương, thơ gồm ba tập thơm; đắng; cuồng và Hồn điên-1938 • Xuân như ý • Thượng Thanh Khí thơ • Cẩm Châu Duyên • Duyên kỳ ngộ kịch thơ-1939 • Quần tiên hội kịch thơ, viết dở dang-1940 • Chơi Giữa Mùa Trăng tập thơ-văn xuôi • Và thơ Phật giáo…Theo thi sĩ Quách Tấn Nha Trang, mùa xuân Tân Sửu, 1961, trong tâm hồn Hàn Mặc Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng mình là “Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo vào dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo như bài “Thánh Nữ Đồng Trinh”.Bài này là những lời Tử dâng lên Đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả”, mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong “cơn lâm lụy”. Trong bài có những chữ “Từ Bi”, “ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoáiLạy Bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế chữ “Từ bi”, còn thấy dùng trong nhiều bài khácThơ tôi thường huyền diệu Mọc lên đạo từ bi Cao HứngTrời từ bi cảm động ứa sương mờ Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá Hãy Nhập Hồn EmNhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “hằng hà sa số” “mười phương” cũng thường gặp trong thơ TửMây vẽ hằng hà sa số lệ Là nguồn ly biệt giữa cô đơn Cuối ThuĐóng cửa mười phương lại Dồn ánh sáng vào đây Điềm lạTrời như hớp phải hơi men ngan ngát Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương Nguồn thơmNhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáoBay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất, Và lùa theo không biết mấy là hương. Phan ThiếtTrở lại trời tu luyện với muôn đêm, Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả. Phan ThiếtNgoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như “thành chính quả”, “sông Hằng”, Tử vãi tung thơ lên tận sông Hằng Phan Thiết. Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Lỵ”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng – chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình con chim phượng hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chính quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, “nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà “chôn hận nghìn thu” và “sầu muộn ngất ngư”.Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóaSao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao, Trăng tan tành rơi xuống một cù lao Hoá đại điện đã rất nên tráng lệ Phan ThiếtVà cõi đời này – mà Phan Thiết là tượng trưng – là nơi đau khổ, là nơi “chôn hận nghìn thu”, là nơi “sầu muộn ngất ngư”. Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy cực lạc Quốc Độ của Phật A Di vô cùng, sáng láng cả mọi miền Ngoài vũ trụCả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác Rất phương phi trên hết cả anh hoa Ra đờiVì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho, Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo Đêm xuân cầu nguyệnNhững “ánh sáng vô cùng” “sáng láng cả mọi miền”, những tiếng “nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác” những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc”, ở trong Tử là vang bóng của “vô lượng quang” của “thiên nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo” trên thế giới Cực lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. “Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép màu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung?” bài tựa Xuân Như Ý. Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng? Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm lòng vô lượng, mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian trời muôn trời chen lấn vô tận hồn tạo vật và tồn tại cùng thời gian năm muôn năm. Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Tử đã quan niệm cái Tâm bất sinh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô Chung và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu” của Đức Chúa Trời, nên Tử “cao rao danh Cha cả sáng”. Như thế Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo – đạo Thiên Chúa cũng như đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho thơ thêm giàu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là “phạm thượng” đối với những đấng Thiêng Liêng mà Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nóiTôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ; Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ Bút tôi reo như châu ngọc đền vuaThật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứngTa chắp tay lạy quỳ hoan hảo, Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian, Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế Đêm xuân cầu nguyệnCòn đối với đạo Phật? Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ và chỉ biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào ra ngọn bút những lúc thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ tưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chứ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa giáo – một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng “Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả hai thể văn và tôn giáo Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giàu cho nền văn chương chung.”Bởi vậy, khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta nên mở lòng mình, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những áng mây lung linh huyền giả Trí Bửu Tạp chí Nghiên cứu Phật học – Số tháng 9/2018——————————–TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đau thương, NXB Hội Nhà văn, 1995 2. Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900- 1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Tuyển tập Thơ Hàn Mặc Tử – Nguyễn Trọng Trí 4. Quách Tấn Nha Trang, mùa xuân Tân Sửu, 1961 5. Từ điển mở Wikipedia Tiếng Việt. Đọc văn§©y thnVÜ D¹- Hàn Mặc Tử-Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảNhóm 1Tìm hiểu về cuộc đời củaHàn Mặc Tử?Nhóm 2Tìm hiểu về sự nghiệp vănhọc của Hàn Mặc Tử?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhSựnghiệpvănhọcMộ Hàn Mặc TửĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhNhà thơ lạ nhất trong phong trào Thơ thơ tài hoa, có sức sáng tạo mạnh thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại vàđau đớnTác phẩm chính SGKĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứ rút từ tập Thơ điên 1938b. Hoàn cảnh ra đờiBài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn MặcTử với một cô gái quê Vĩ Thị Kim CúcĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩmCâu hỏi trắc nghiệmDòng nào dưới đây nhậnxét đúng về âm điệu bài thơ?Trầm hùng, bi phẫn, trang trọnga. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcHào hùng, khoan thai, dõngdạcNhẹ nhàng, da diết, khắckhoảiChậm, buồn, ảo não, nghẹnngàoĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcNhẹ nhàng, da diết,khắc khoảiSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?Đau thương, NXB Hội Nhà vănĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứCâu hỏi trắc nghiệmĐề tài của bài thơ làTình yêu quê hương đất nướcb. Hoàn cảnh ra đờic. Đọcd. Đề tàiTình yêu thiên nhiênTình yêu lứa đôiÝ kiến khácĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Hình thứcChủ thểCâu hỏi tu từNgười con gái xứ HuếHàn Mặc TửGiãi bàyMời mọcKhát khao, hi vọngTrách cứ nhẹ nhàngNuối tiếc, bất lựcTình yêu tha thiết với cuộc đời,Thấp thoáng một chút đau ảnh con người Nhóm 3Con người thôn Vĩ được táihiện qua những hình nào?Cảm nhận về vẻ đẹp conngười xứ Huế qua những hìnhảnh đó?Cảnh vườn thôn Vĩ Nhóm 1Cảnh vườn thôn Vĩ được miêu tả quanhững hình ảnh nào? Cảm nhận củaanh chị về cảnh vườn tược thôn VĩDạ?Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướtquáKhổ1 xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ ra những đặc sắc nghệthuật được tác giả sử dụng đểtái hiện lại bức tranh thôn Vĩ?Nghệ thuật Nhóm 2Cảnh vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quít“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,Đằngtràn đầy sức sốngKhổ 1saubức tranhthôn Vĩ, emcảm nhậnđiều gì vềtâm trạngcủa nhà thơ?Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtTâm trạng của nhà thơ“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm sayHình ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quíttràn đầy sức sốngKhổ 1Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtcủa nhàTâmtrạngtrạng củathơnhàthơTâm“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm say“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Phảng phất chút ngậm ngùi,nuối tiếc, nhớ ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Tiểu kếtBức tranh xứ Huế trong buổi bình minh vừa mượtmà, óng ả, vừa đằm thắm, thơ mộng. Cảnh vật đượctái hiện bằng tình yêu, bằng hoài niệm với xứ Huếcủa nhà tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 1 Tiếng nói nội tâm trong câu hỏi “Sao anh không về chơithôn Vĩ” không mang sắc thái cảm xúc nào?Mời mọcTrách mócBăn khoănKhát khaoBài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 2 Câu thơ nào trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn MặcTử gợi vẻ đẹp nên thơ, hài hoà giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới trúc che ngang mặt chữ điềnVườn ai mướt quá xanh như ngọcSao anh không về chơi thôn Vĩ?Bài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 3 Những hình ảnh sử dụng trong khổ thơ có đặc điểmGiản dị, gần gũi, đậm chất dân sức gợi, mang màu sắc tượng trưngTrang trọng, hàm súc, mang đậm màu sắc cổ điểnTáo bạo, hiện đại, tạo cảm giác mạnhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản2. Khổ 2Thảo luận nhómNhóm 1Nhóm 2Nhóm 3Cảnh xứ Huế trongbuổi chiều được táihiện như thế nào?Nhận xét về bứctranh thiên nhiên?Cảm nhận về bứctranh thiên nhiêntrong đêm trăng?Bức tranh ấy đemđến cho em ấntượng gì về xứHuế?Đằng sau bức tranhthiên nhiên xứ Huếtrong khổ 2, emcảm nhận gì về tâmtrạng của nhà thơ?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bảnKhổ 2- Cảnh thiên nhiên trong buổichiều~ Gió >< mây chia lìa, xa cách~ Dòng nước buồn thiu Ảm đạm, nhuốm màu thiên nhiên trong đêm trăng~ Sông trăng lộng lẫy, thơ mộng~ Thuyền ai Ngỡ ngàng, bângkhuâng. Thơ mộng, lãng trạng ~ Nỗi buồn hiu hắt, mang dự cảm hạnh phúc chia lìa.~ Khắc khoải, lo âu, hồ nghi, thất vọng Hàn Mặc Tử là thi sĩ có phong cách vô cùng sáng tạo và bí ẩn trong làng Thơ mới. Ông đặt nền móng cho dòng thơ lãng mạn Việt Nam, luôn gửi gắm vào những tác phẩm của mình một tình yêu cháy bỏng với cuộc sống, khát khao tình người đến xót xa. Tuy tài hoa là vậy song “chữ tài đi với chữ tai một vần”, cuộc đời ông nhuốm màu đau thương, bạc mệnh. Trải qua hơn một thế kỷ với bao thăng trầm, thơ văn Hàn Mặc Tử ngày càng chứng tỏ được sức sống bền bỉ và là giá trị khó phai mờ trong nền văn học Việt Nam. Hàn Mặc Tử là ngôi sao cô đơn trên bầu trời Thơ mới Hàn Mặc Tử chính tên là Nguyễn Trọng Trí, sinh tháng 9 năm 1912 tại làng Lệ Mỹ, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Tuy vậy ông gần như gắn bó trọn đời với mảnh đất Quy Nhơn đầy nắng và gió. Tổ tiên Hàn Mặc Tử vốn xuất thân từ họ Phạm ở Thanh Hóa. Cụ tổ ông là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, bị truy nã nên người con trai Phạm Bồi phải dời vào Thừa Thiên Huế, sau đổi sang họ Nguyễn của mẹ. Thi sĩ vốn thể chất yếu ớt từ nhỏ , tính tình hiền lành lại chăm chỉ học hành và thích kết bạn để đàm đạo văn chương, thơ phú. Cha ông là Nguyễn Văn Toàn làm thông ngôn ký lục nên thường đi nhiều nơi, do đó Hàn Mặc Tử cũng theo học nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ, Quy Nhơn, Bồng Sơn, Pellerin Huế. Từ thuở thiếu niên, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ năng khiếu làm thơ, ông gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng lớn từ vị danh sĩ này, về sau lại được cụ Phan giới thiệu tác phẩm Thức khuya của mình lên một tờ báo. Năm 1933, nhà thơ bắt đầu vào Sài Gòn lập nghiệp rồi làm ở Sở Đạc điền thời gian ngắn. Về sau, ông trở thành phóng viên phụ trách trang thơ của báo Công luận. Làm được ít lâu thì Hàn Mặc Tử lại trở về Quy Nhơn. Năm 1935, gia đình đã phát hiện trên người thi nhân có dấu hiệu của bệnh phong. Tuy vậy ông không quan tâm vì nghĩ rằng chỉ là chứng ngứa không đáng kể, đâu ngờ lại là một căn bệnh nguy hiểm, nan y. Khoảng từ năm 1938 đến năm 1939, Hàn Mặc Tử đau nặng nhưng không dám nói với ai mà chỉ gào thét đau thương trong thơ mà thôi. Về sau, ông được đưa vào trại phong Quy Hòa để điều trị và qua đời một thời gian ngắn sau đó. Bút danh gắn liền với cuộc đời bi thương của Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử chỉ là bút danh, còn nhà thơ tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Theo các nhà nghiên cứu, bút danh ấy được kết hợp giữa nghĩa của từ tiếng Hán và Việt. “Hàn” dùng để chỉ bút lông, “Mặc” tức mực dùng để viết, “Hàn Mặc Tử” mang hàm ý chỉ người viết văn, làm thơ, người có duyên với văn chương. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu về vấn đề phân thành hai “trường phái” khác nhau là Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử. Ông Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ cho biết sinh thời anh trai mình vô cùng ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc và tự nhận mình thuộc môn phái này. Chữ “Mặc Tử” mang hàm ý môn đồ Mặc Dịch còn chữ “Mạc Tử” thì không có ý nghĩa. Tuy vậy, theo những tài liệu khác ghi chép lại thì chữ “Mạc Tử” gắn với một câu chuyện về mối tình với nàng Hoàng Cúc của Hàn Mặc Tử. Bạn bè ông kể lại rằng có nhiều hôm thi sĩ ngồi thừ trên chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi cô Cúc đi ngang qua, trông đến thiểu não. Bạn bè đến chơi trông thấy ông ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu đùa là con người sau bức rèm lạnh và gọi vui Hàn Mạc Tử. Chữ “Hàn” ở đây mang nghĩa là lạnh và chữ Mạc không dấu là bức màn, hai chữ “Hàn Mạc” là bức rèm lạnh. Trước khi bước vào nghề văn, thi sĩ gốc Quảng Bình còn lấy bút danh là Minh Duệ Thị, sau đổi thành Phong Trần. Nhà thơ Quách Tấn chê rằng bút danh này không hợp với ông nên lại đổi qua Lệ Thanh. Tuy cuộc đời mang nhiều đau thương, cay đắng song Hàn Mặc Tử lại là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, có nhiều đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam, đặc biệt là dòng thơ trữ tình lãng mạn. “Tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mặc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mặc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mặc Tử làm ra họ đều chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mặc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã khúc mắc mà lại nhiều tất cả đều sáu, bảy tập. Học thuộc hết và chọn những lúc đêm khuya thanh vắng họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ.” – Nhà phê bình văn học Hoài Thanh Biết bao độc giả phải rùng mình khi đắm chìm vào hồn thơ u ám và đẫm sương lạnh của ông. Hàn Mặc Tử đã ghi dấu ấn đậm nét qua nhiều tuyển tập tác phẩm như Thơ điên, Mật đắng, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội, Gái quê, Thượng Thanh Khí, Xuân Như Ý, Cẩm Châu Duyên. Đây thôn Vĩ Dạ là viên ngọc sáng mãi trong đời thơ của thi sĩ Đây thôn Vĩ Dạ với chất thơ riêng biệt cùng hình ảnh người con gái Huế thân thương đã mãi khắc sâu trong tâm trí người yêu văn chương, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới Việt Nam. Thông qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên, nhà thơ đã bộc lộ tình yêu tha thiết giữa cảnh và người đồng thời bày tỏ tâm trạng buồn, hoài nghi của những mặc cảm không thể rũ bỏ. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” – Đây thôn Vĩ Dạ Miền ký ức Vĩ Dạ được khơi nguồn trong một buổi sớm mai khi ánh bình minh chan hòa khắp khu vườn. Ấn tượng sâu nhất được vương lại từ những câu thơ đầu tiên chính là không gian ngập tràn sắc nắng, đặc trưng của xứ sở miền Trung. Không phải là nắng ửng trong “làn khói mơ tan”, cũng chẳng phải “nắng chang chang dọc bờ sông trắng”, nắng ở đây là thứ nắng mới tinh khôi, không đậm màu đậm hương. Hình ảnh “hàng cau” là đặc trưng thứ hai ở xứ Vĩ bởi cau là loại cây tô điểm không thể thiếu trong cấu trúc nhà vườn xưa, gợi đến truyền thống cau trầu, nét văn hóa gìn giữ của mảnh đất cố đô. Hơn thế nữa, cau lại là cây cao nhất trong vườn, vì vậy mỗi ban mai, khi những tia nắng đầu tiên lấp ló đổ xuống, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, nắng tràn xuống thân cau từng đốt một cũng là lúc cả khu vườn được tắm bởi nắng sớm. Ý thơ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” có thể nói là một so sánh độc đáo và vô cùng tinh tế. Một khoảng xanh vườn tược được hiện ra. Nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mỡ màng, mượt mà của vườn cây. Ở đó không chỉ có màu xanh của vẻ đẹp thiên nhiên mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá, cành cây được gột rửa bởi sương đêm đã trở thành “lá ngọc”. Từ “mướt” gợi tả lên vẻ đẹp ngồn ngộn sức sống, cao quý, lấp lánh và đầy trong trẻo. “Khuôn mặt chữ điền” hiện ra sau những nhành lá trúc hư hư thực thực, cảnh và người hòa hợp trong nhau, đến một lần là cả đời chắc chắn sẽ không bao giờ quên được. Câu hỏi tu từ đầu thi phẩm cất lên đầy ẩn ý, giống như lời mời gọi lại cũng như lời trách móc, thở than, Điều cốt lõi những độc giả thấy được ở đây chính là nỗi niềm tha thiết, xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm dù chỉ là trong tâm tưởng. “Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?” – Đây thôn Vĩ Dạ Bức tranh thứ hai hiện lên tương đối khác so với bức tranh thứ nhất, khi có sự “nhảy cóc” từ ánh sáng bình minh tới không gian mơ màng của đêm trăng. Cảnh vật thi vị, gió nhè nhẹ, mây lững lờ bay trong một đêm thanh vắng. Tưởng chừng như cả gió và mây đều cố khẽ khàng để không phá tan bầu yên tĩnh. Một bức tranh gợi sầu, gợi buồn, cái dáng Huế mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế thôi. Không khí trầm tịch của đất cố đô dường như được khắc họa chỉ qua mấy nét chấm phá. Đối với Hàn Mặc Tử, “trăng” là tri âm, ám ảnh, một hiện tượng độc đáo trở đi trở lại trong rất nhiều tác phẩm của ông. Hồn thi sĩ và trăng hòa quyện với nhau, vì nhau mà tồn tại. “Có chở trăng về kịp tối nay” ẩn chứa niềm tha thiết cháy bỏng, niềm tin yêu cuộc sống mạnh mẽ đầy khát khao, đầy hy vọng. “Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra… Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà?” – Đây thôn Vĩ Dạ Đến với khổ thứ ba, mọi ký ức đã trở nên mơ hồ, dòng tâm tưởng chờn vờn như một giấc mơ. Do đó mà những hình ảnh xuất hiện cũng chập chờn, thiếu rõ ràng, bồng bềnh như sương khói. Hình ảnh “vị khách đường xa” chỉ như một tên gọi, không hình dung được dáng hình. “Màu áo trắng” đầy ám ảnh gợi độc giả liên tưởng đến màu áo dài trắng của nữ sinh trường Đồng Khánh, nơi người thương của Hàn Mặc Tử từng theo học. Có lẽ trong ấn tượng của ông, màu áo tinh khôi thanh khiết ấy đã trở về trong miền ký ức chập chờn, như sáng lên giữa mịt mù sương khói, để thi nhân có thể thấu rõ dáng hình cô gái năm xưa. Lời thơ kết lại với một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” mang bao ưu tư như nhắc nhở, vừa nâng niu, hy vọng lại vừa có chút thất vọng, sự hồ nghi mang bao đau đớn. “Thơ không cần nhiều từ ngữ, nó cũng không quan tâm đến hình xác sự sống. Nó chỉ cần cảm nhận và chuyển đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ.” – Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh Bài thơ như khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng tìm một mảnh đất cũng là hướng về một mảnh đời. Đây thôn Vĩ Dạ viết theo mạch cảm xúc tâm tưởng, được tạo bởi những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử, hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa. Đây thôn Vĩ Dạ xứng đáng là một thi phẩm với những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất. Mỗi tiếng thơ đều đậm đà biết bao cảm xúc, biết bao trăn trở, day dứt, suy tư, thực sự làm rung động trái tim độc giả đến muôn đời. Hàn Mặc Tử và những vần thơ điên loạn Hàn Mặc Tử đã trở thành tượng đài phong trào Thơ Mới, một trong những thời đại rực rỡ nhất của thi ca Việt Nam. Ông thực sự phá tung xiềng xích mà những lễ giáo phong kiến cũ thiết lập để khám phá ra một hành trình mới cho nghệ thuật nước nhà. “Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch…” – Nhà thơ Trần Đăng Khoa Những ngày tháng cuối đời thi nhân bị mắc bệnh phong và phải điều trị tại trại phong Quy Hòa. Căn bệnh nan y ấy khiến ông trở nên suy sụp, khép lòng mình và chìm vào thế giới riêng với những vần thơ điên loạn. Dường như nỗi cô đơn, đau đớn vì bệnh tật đã khiến thi sĩ rút ruột ra để làm thơ. Trên thi đàn Việt Nam hiếm có ai cất lên được những tiếng thơ đau thương đến thế. Dẫu vậy, ông khi ấy vẫn còn nồng nàn tình yêu với cuộc sống lắm, “chới với bên miệng vực mà vẫn nhìn đời, níu đời”. “Máu đã khô rồi, thơ cũng khô Tình ta chết yểu tự bao giờ Từ nay trong gió, trong mây gió Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ.” – Trút linh hồn Nổi bật nhất trong di sản văn chương mà Hàn Mặc Tử để lại có lẽ phải kể đến tập Thơ Điên xuất bản năm 1938, về sau đã đổi tựa thành Đau thương. Những thi từ rơm rớm máu, thấm đượm chất điên cuồng, mê loạn. Thơ ông ngập tràn trong “máu”, không khí rùng rợn, tang thương bao trùm lên mỗi thi phẩm. Đó chính là “tiếng kêu rỏ máu của con chim sắp lìa trần, là tiếng nói của những hụt hẫng, tan hoang, là tiếng nói của một thân phận bị dồn đẩy vào miệng vực của cái chết.” “Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi lời thơ đều dính não cân ta Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt Như mê man chết điếng cả làn da.” – Rướm máu Đang ở độ tuổi xuân phơi phới, Hàn Mặc Tử phải chịu đựng căn bệnh quái ác ngày đêm hành hạ, nỗi lo về cái chết cận kề dần hủy diệt cuộc sống của thi sĩ. Cảm xúc ngày một bi quan và ông chỉ biết trút hết những tiêu cực đó vào thơ. “Ta trút linh hồn giữa phút đây Gió sầu vô hạn núi trăm cây Còn em sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày.” – Trút linh hồn Dẫu có đau đớn thế nào thì tình yêu tha thiết với cuộc sống của Hàn Mặc Tử vẫn còn rất lớn. Lòng ham sống mãnh liệt được thể hiện qua những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng. Tình yêu ấy vẫn đủ mạnh mẽ để níu kéo một tâm hồn tuyệt vọng. “Tuyệt vọng có thể chấm dứt hy vọng nhưng không chấm dứt được tình yêu. Tình yêu ở Hàn Mặc Tử càng mãnh liệt, càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng, càng mãnh liệt. Và như một nghịch lý khó hiểu, tình yêu tuyệt vọng đã trở thành một cách thể yêu đời của Hàn Mặc Tử.” – Sưu tầm Thưởng thức tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử, độc giả dường như cảm nhận được cái ham muốn tột cùng trong tâm trí thi sĩ là tìm tới một cõi siêu thực, để có thể cứu cánh ông khỏi nỗi đau thương đã quá sức chịu đựng. Những ai đã đọc Thơ Điên chắc hẳn đều thấy được vẻ kỳ dị tràn ngập từng câu chữ. Ông hay nói tới cái sự rơi rụng, tàn rữa của thân xác và đề cập tới các hành động mạnh bạo như “ăn, đớp, nuốt, nhả, mửa, khạc” đầy quái đản. “Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.” – Say trăng Tuy siêu thực và đầy mộng mị nhưng các tác phẩm của ông vẫn có yếu tố lãng mạn níu lại. Sự kết hợp tinh tế ấy giúp cho nỗi niềm thương đau trở nên huyền bí, kỳ ảo. Nó chạm tới tận đáy sâu trong tâm hồn của tất cả những ai yêu thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử và những nàng thơ thoảng qua cuộc đời Trong tình yêu đôi lứa, Hàn Mặc Tử nguyện hy sinh tất cả mà chẳng hề đòi hỏi người phải dành tình cảm cho mình. Nhiều mối tình đơn phương chỉ đem lại cô đơn song ông vẫn yêu và cất lên những vần thơ tha thiết, đắm say. Người tình đầu tiên của chàng thi sĩ tài hoa là nàng Mộng Cầm. Ông dường như dành trọn những gì tốt đẹp, tươi mới nhất từ tuổi trẻ cho cô gái ấy, một người đem lại nguồn thi hứng bất tận song cũng gây nên cho nhà thơ nỗi đau tột cùng. Hàn Mặc Tử say đắm Mộng Cầm ngay từ những ngày đầu tiên bước chân lên Sài Gòn làm báo. Để có thể gặp gỡ nàng thơ của mình, tuần nào ông cũng dành thời gian đi xe lửa ra Phan Thiết. Theo những gì mà người bạn thân của Mộng Cầm là Châu Hải Kỳ kể lại, phải chăng cô chỉ yêu thơ Hàn Mặc Tử chứ không hẳn là yêu ông. Có nguồn thông tin khác cho rằng vì nàng học y nên sớm phát hiện thi sĩ đã mắc bệnh phong, mệnh yểu khó sống lâu nên viện lý do tôn giáo khác biệt để né tránh tình cảm. “Họ đã xa rồi không níu lại Lòng thương chưa đã mến chưa bưa Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ…” – Những giọt lệ Có tư liệu cho rằng mối tình đầu của thi sĩ không phải Mộng Cầm mà là một cô gái Huế tên Trà, con gái út người cậu họ. Mối tình ấy có lẽ là yên bình, tĩnh lặng nhất, không ồn ào song lại đau đáu khó quên. Hai người do có cùng sở thích là viết văn và đọc báo nên sớm xích lại gần với nhau, chia sẻ nhiều điều trong cuộc sống. Dẫu vậy ông lại chẳng sáng tác nổi câu thơ nào dành cho cô vì tình yêu quá thổn thức, khác hẳn với những mối tình sau này đều được “giải tỏa” bằng văn chương. Người tình thứ hai mà Hàn Mặc Tử yêu say đắm đó là cô Hoàng Cúc, được phỏng đoán là nàng thơ trong tuyệt phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Cô gái quê ấy chân phương, thật thà lại nết na, thùy mị, khiến chàng thi sĩ ngày đêm mong nhớ, ôm mộng tương tư. Năm 1939, nàng Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Tin ấy đối với Hàn Mặc Tử mà nói chẳng khác nào sét đánh ngang tai, suy sụp như thể nàng cất bước theo chồng. Về sau cô có gửi thư hỏi thăm nhà thơ và tặng kèm một bức tranh phong cảnh. Ông đã viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để đáp lại tấm chân tình ấy. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” – Đây thôn Vĩ Dạ Mối tình thứ ba là cô gái Mai Đình, rất có học thức và cực kỳ ái mộ những vần thơ bay bổng của Hàn Mặc Tử. Trớ trêu thay khi ấy thi sĩ biết bệnh mình trở nặng nên nhất quyết né tránh Mai Đình cho dù cô đã đến tìm nhiều lần. Thậm chí cô Mai Đình còn tuyên bố chỉ coi Hàn Mặc Tử là chồng chính thức, ngỏ ý giúp đỡ ông chút tiền để chạy chữa, thuốc thang. Lâu dần hai người trở nên tâm đầu ý hợp, thường xuyên gặp gỡ xướng họa. Nhiều nhà nghiên cứu phỏng đoán nàng thơ trong tập Thượng Thanh Khí chính là cô Mai Đình. “Non nước tâm tình rộng bốn phương Đòi em làm Nhạc, tôi làm Hương Đêm nay đại yến Lâm Xuân Các Điêu Thuyền đàn khúc Tề Tuyên Vương Xong rồi đôi ta qua Đào Nguyên Em làm rượu ngọt, anh làm men Tiên cô không đợi duyên mời mọc Say thôi gò má đỏ rần lên…” – Mơ duyên Một hai năm trước khi mất, có một sự tình cờ đến bên đời Hàn Mặc Tử, đó là giai nhân có cái tên khả ái, Thương Thương. Dẫu vậy, ông lại chẳng biết gì nhiều về người con gái ấy ngoài hai chữ Thương Thương. Có tài liệu cho rằng, bạn thân của nhà thơ là Trần Thanh Địch vì thương bạn mà nghĩ cách lấy tên Thương Thương để viết thư cho ông. Dù chỉ trao đổi với nhau qua những con chữ song tình cảm thi nhân dành cho người con gái ấy đã ngày một lớn dần. Về sau, khi Hàn Mặc Tử biết được thân phận cô gái Thương Thương thì dường như thế gian sụp đổ. Bệnh tình ông trở nặng và phải đưa vào nhà thương để điều trị. Bác sĩ chẩn đoán bệnh khó chữa do ông sử dụng nhiều loại thuốc có độc tố làm ảnh hưởng đến nội tạng. “Một khối tình nức nở giữa âm u, Một hồn đau rã lần theo hương khói, Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi, Một lời run hoi hóp giữa không trung, Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng, Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn…” Trường tương tư Hàn Mặc Tử đã đặt biệt danh cho nàng là “người lụa bến sông Hương”, tình yêu ấy vẫn chắp cánh cho hồn thơ ông bay bổng, sáng tác nên những vở kịch thơ đầy ngọt ngào và lãng mạn trong Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội. Một mối tình khác thoáng qua trong đời Hàn Mặc Tử chính là cô Ngọc Sương, chị ruột nhà thơ Bích Khê. Nàng xuất hiện tựa như sự an ủi của Chúa dành cho ông, để những ngày tháng dày vò vì bệnh tật không còn quá đau đớn. “Thơ tình của Hàn là những lời tình đau thương nhất trong thi ca Việt nam, bởi nó gói trọn cả không gian, cả thiên nhiên vạn vật trong đau khổ, gói cả cõi thơ, cả linh hồn vào một vùng không gian xuất huyết, chết theo với bóng tà ác lặn.” – Sưu tầm Bất hạnh đến vậy song ông trời vẫn không dành cho ông chút an ủi cuối cùng lúc sắp từ trần. Hàn Mặc Tử qua đời khi xung quanh chẳng có người thân, bạn bè hay nàng thơ nào bên cạnh. Chỉ có tiếng sóng biển và rặng thông reo trên đồi ru ông vào giấc ngủ ngàn năm. Thi sĩ họ Hàn và mối lương duyên kì lạ với “trăng” Hàn Mặc Tử là thi nhân mang hồn thơ “điên loạn”, chạm tới những điều mà người thường không bao giờ tưởng tượng được. Miền hư ảo của ông quẩn quanh mối tương quan giữa hồn – trăng – máu, chắc hẳn sẽ khiến bất cứ ai cũng rùng mình khi thưởng thức. Trăng trong tiềm thức con người bất hạnh ấy không chỉ mang dáng hình thuần khiết của sự vật mà còn là minh chứng hùng hồn rằng thế giới tưởng tượng của ông là có thật, luôn tồn tại song hành với chúng ta. “Ánh trăng mỏng quá không che nổi Những vẻ xanh xao của mặt hồ Những nét buồn buồn tơ liễu rủ Những lời năn nỉ của hư vô.” – Huyền ảo Nhà thơ luôn khao khát thoát khỏi trần thế bi ai để tìm về với cõi an nhiên, cõi vĩnh hằng. Ông lấy trăng làm điểm tựa, ánh sáng dịu dàng ấy sẽ gột rửa được những nỗi thống khổ tầm thường. Trăng tuôn ra từ đầu ngọn bút, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng. “Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng em Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực…” – Hồn là ai Trăng và hồn thi sĩ như hòa vào làm một, từ đó họa ra thế giới hư vô, ngập tràn ảo ảnh lung linh. Trăng đại diện cho mong muốn tột cùng của Hàn Mặc Tử, đó chính là khát khao được thoát tục, thoát khỏi những khổ ải tầm thường đang ngày đêm bủa vây. “Nàng thơ” đặc biệt ấy cũng tượng trưng cho cuộc đời chứa đầy nước mắt của thi sĩ. Không chỉ chịu đựng nỗi đau thể xác mà tinh thần cũng bị dày vò bởi những yêu thương không trọn vẹn. “Hàn Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người…” – Sưu tầm Trăng qua ngòi bút của Hàn Mặc Tử vẫn luôn thấm đậm đớn đau như thế. Tuy vậy vầng trăng đơn độc ấy cũng ít khi được trọn vẹn, ông đành lòng chia nửa vầng trăng như thể mong muốn chúng đồng cảm với mình. “Hôm nay còn một nửa trăng thôi Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi! Ta nhớ mình xa thương đứt ruột! Gió làm nên tội buổi chia phôi!” – Một nửa trăng Có lẽ ông trời cũng quá sức nhẫn tâm khi ban cho Hàn Mặc Tử sức sáng tạo vô biên nhưng lại khiến ông đau thương để khơi nguồn cho dòng cảm hứng. Với tác giả, thương đau đồng nghĩa với sáng tạo, là phương tiện để chạm tới cung bậc cảm xúc con người. Hơn hết, trăng vẫn luôn được coi là người bạn tri âm, tri kỷ của Hàn Mặc Tử. Ông dùng trăng để thổi hồn vào thơ, nhân hóa như thể chúng cảm nhận được tình yêu, thù hận. Con thuyền trăng chở nặng nỗi niềm thi sĩ, gieo vào lòng độc giả hậu thế biết bao tâm tư, suy ngẫm chẳng biết giãi bày cùng ai. Ông yêu trăng, trân trọng như một phần của cơ thể. “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.” – Bẽn lẽn Trăng trong thơ Nguyễn Du gợi tình, gợi cảm, ánh trăng Xuân Diệu nhẹ nhàng, tha thiết còn thuyền trăng của Hàn Mặc Tử lại đầy bí ẩn, dị thường. Ông say cùng trăng, giỡn với trăng, ôm ấp trăng vào lòng mà thủ thỉ, tâm tình. Trăng của Hàn Mặc Tử vừa đẹp như một giấc mơ, lại giống như cô gái đang phô diễn nét đẹp hình thể. Bóng trăng ấy rất quyến rũ, mê hồn, lả lơi trêu ghẹo những anh chàng si tình một cách đầy táo bạo. “Trong khóm vi lau hồi hộp mãi Tiếng lòng ai nói? Sao im đi? Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm, Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe…” – Bẽn lẽn Dẫu tri kỷ là vậy song cũng có lúc Hàn Mặc Tử muốn “bán trăng” đi, để nó rời xa không dấu vết. Phải chăng bởi nó vừa xoa dịu nỗi đau nhưng cũng là tác nhân gây nên nỗi đau mà ông ngày đêm phải chịu đựng. “Trăng! Trăng! Trăng! Là trăng, Trăng, Trăng! Ai mua trăng tôi bán trăng cho Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ.” – Trăng vàng trăng ngọc Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử đa dạng và nhiều màu sắc, ngôn từ ấn tượng gợi cho độc giả biết bao liên tưởng phong phú. Tâm hồn ông thăng hoa thành những vần thơ tuyệt diệu, không chỉ đem đến niềm thương cảm mà còn vương lại cảm xúc thẩm mĩ khó quên. Cuộc đời Hàn Mặc Tử cũng đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho hậu thế, trải dài trên hầu hết các lĩnh vực như âm nhạc, hội họa, sân khấu, điện ảnh, điêu khắc. ”Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, còn lại chút gì trên đời này đáng kể, đó chính là Hàn Mặc Tử.” – Nhà thơ Chế Lan Viên Ông được xem là một trong những “hiện tượng” kì lạ nhất của nền văn chương Việt Nam. Các tác phẩm đều vượt ra khỏi cái vòng an toàn mà lễ giáo phong kiến đã áp đặt. Gần một thế kỉ đã trôi qua nhưng “hiện tượng” Hàn Mặc Tử vẫn luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt. Hiện đã có hơn một trăm công trình, chuyên đề lớn nhỏ để nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của thi sĩ họ Hàn. Tiểu Mai

chuyên đề hàn mặc tử